Khi nghiên cứu về Chăm, câu hỏi đầu tiên cần đặt ra là: bộ phận Chăm nào, hay Chăm thuộc tôn giáo tín ngưỡng nào? Suốt dòng lịch sử, người Chăm có 3 tôn giáo chính: Bà-la-môn, Phật giáo đại thừa và Islam. Ở đó Phật giáo đại thừa chỉ có mặt trong 3 thế kỷ VIII-X rồi biến mất hẳn, chỉ Bà-la-môn và Islam còn tồn tại ở Việt Nam. Bên cạnh Cham Ahier (Chăm Bà-la-môn) có mặt suốt lịch sử dân tộc, Islam có hai nhánh là: Hồi giáo bản địa hóa hay Cham Bini (Cham Awal) và Hồi giáo chính thống hay Cham Islam. Chăm Bà-ni là Hồi giáo được bản địa hóa từ thế kỷ XVII. Đây là trường hợp rất đặc biệt trong lịch sử thế giới.
Đặt câu hỏi bộ phận Chăm nào, để biết rằng, kiến trúc tôn giáo Chăm có khác biệt lớn. Có hai loại: kiến trúc thánh đường và kiến trúc tháp Chàm. 1. Kiến trúc thánh đường chủ yếu là kiến trúc Sang Mưgik của người Chăm Bà-ni và Masjid hay Surao của bộ phận đồng Chăm theo Islam. Sang Mưgik của Bà-ni và Masjid của Islam có sự khác biệt lớn. Thánh đường Cham Islam mang dáng dấp chung của thánh đường Hồi giáo thế giới, ở đó mọi kiến trúc thánh đường đều hướng về thánh địa Mecca, trong khi đó người Cham Bà-ni ngược lại, cửa chính Sang Mưgik hướng về mặt trời mọc là nơi cư trú của thần linh trong tín ngưỡng Bà-la-môn. Bề ngoài Masjid có mái vòm cao với trăng lưỡi liềm và ngôi sao lớn, Sang mưgik thì không; còn ngôi sao nếu có thì rất nhỏ, chỉ như để trang trí. Bên trong Sang Mưgik là bục Mrong nơi cấp Acar làm lễ dịp Xuk Yơng, đọc kinh và nắm Gai Bhong Cây trượng. Mrong là biến thái của bục Mơmbar trong Masjid dành để đọc Khatabah ngày Jumaat, đặt ở trung tâm nơi trong cùng. Sau rốt, nếu mặt tiền Sang Mưgik viết chữ Chăm truyền thống Akhar thrah đôi khi kèm cả chữ Ả Rập, thì Masjid chỉ có chữ Ả Rập. 2. Riêng kiến trúc tôn giáo Chăm Bà-la-môn thì vẫn là kiến trúc cổ Champa. Ở đây, theo chức năng, có thể chia kiến trúc cổ Chăm làm hai khu vực chính: Từ Phú Yên trở ra, toàn bộ tháp Chăm để thờ các vị thần trong hệ thống Ấn Độ giáo, còn từ Nha Trang vào thì thờ các vị vua, tướng được thần hóa. Người Chăm lấy tên vị vua ấy đặt tên cho cụm tháp mà họ thờ. Tháp Bà ở Nha Trang thờ người sáng lập vương quốc Champa là Po Inư Nưgar; tháp Po Klaung Girai hay tháp Po Rome ở Ninh Thuận thờ hai vị vua này; tháp Po Dam và Tháp Po Xah Inư ở Bình Thuận cũng vậy. 3. Tháp Chàm đến hôm nay vẫn còn phong kín nhiều bí mật. Riêng về chất kết dính gạch tháp, đã có nhiều giả thuyết đưa ra, cả thử nghiệm. Bằng phương pháp loại trừ, chúng ta có thể tìm ra vài bí mật của nó. Giả thuyết về việc xây tháp bằng gạch sống, sau đó đốt lên, là sai lầm bị loại sớm nhất. Bởi thực tế, trong khu vực tháp hiện còn tồn tại rất nhiều “lò gạch”. Tabbok Kiak (gò gạch) ở làng Chăm Caklaing – Mỹ Nghiệp, tỉnh Ninh Thuận được cho là địa điểm làm gạch để xây tháp Po Klaung Girai. Truyền thuyết còn kể, người Chăm chuyển gạch bằng cách xếp hàng đưa-nhận theo hệ thống dây chuyền. Từ lò gạch đến đồi tháp Po Klaung Girai, chỉ cần vạn nhân công là đủ. 4. Tháp Chăm có nhiều phong cách khác nhau, thế nhưng dẫu khác nhau đến mấy thì một cụm tháp Chăm (Bimong Cham) chuẩn luôn được bố trí theo sơ đồ nhất định: trước ngôi tháp chính là tiền sảnh mở ra tháp cổng, phía Nam là tháp lửa và sau cùng, chếch về đằng sau kalan là tháp bia. Bimong được người Chăm định danh cho cả cụm tháp, riêng Kalan là để chỉ ngôi tháp chính. 5. Khác với Sang Mưgik hay Masjid, tháp Chàm được xây dựng ở rất nhiều địa hình khác nhau: Trong thung lũng kín đáo, cạnh sông lớn hay giữa đồng bằng; tháp cũng có thể dựng trên trên ngọn đồi gần cửa biển, ven sông hay trên ngọn đồi biệt lập; được dựng bên sườn núi, trên bờ biển, trên đỉnh núi cao, trong hang động… Tất cả đều giống nhau ở sự tách biệt với khu dân cư. Tại sao? Bởi sinh hoạt cộng đồng nào bất kỳ luôn xảy ra bao nhiêu chuyện, trong khi tháp là khu vực linh thiêng chỉ dành cho việc thờ phụng. Người Chăm vừa sợ hãi vừa tôn kính tháp. Vài thập niên trước, đi gần khu vực tháp, không người Chăm nào dám nói lời sằng bậy hay chửi thề, là vậy. 6. Tất cả tháp Chàm đều có 13 vòm trụ, tương ứng với cơ số 13 mà người Chăm xưa dùng trong ngày thường. Đó là con số biểu trưng cho sự vượt quá, nó từ chối sự trung bình, do đó hoặc sẽ rất tốt hoặc sẽ rất xấu.Trong quá trình lịch sử, Bimong bị bỏ rơi, không được thờ phụng, người Chăm gọi là Bimong bhaw hay Bimong jwa tức tháp hoang; còn các tháp đang được thờ phụng gọi là Bimong diip. Trong các dịp lễ Kate hay Cabbur, người Chăm lên tháp làm lễ mở cửa, cúng tế trời đất và những vị vua có công với non sông đất nước. Người Chăm không bao giờ mở cửa tháp cho khách tham quan, nếu không nhằm vào ngày lễ. 7. Cuối cùng, cho dù người Chăm Bà-ni có xuất phát tôn giáo từ Islam, nhưng trong thực tế sinh hoạt tín ngưỡng, bà con Chăm Bà-ni thờ phụng tháp Chăm Ấn Độ giáo như là của mình từ mấy trăm năm qua. Tháp Po Xah Inư hay tháp Po Dam ở Bình Thuận, cả tháp Po Klaung Girai ở Ninh Thuận cũng thế, rất nhiều bà con Chăm Bà-ni lên cúng tế mỗi dịp tế lễ. Ở tháp Po Rome, Katê hằng năm, người Chăm làng Phước Nhơn (Pabblap, Chăm Bà-ni) vẫn lên tháp cúng tế, có khi còn đông hơn cả bà con Chăm bà-la-môn làng Hậu Sanh (Thon) gần đó nữa. Chính những điều đó làm nên đặc trưng thú vị của văn hóa Chăm.
Tác giả bài viết: Trà Chân
Nguồn tin: www.baobinhthuan.com.vn
nghiên cứu, câu hỏi, bộ phận, nào hay, tôn giáo, tín ngưỡng, lịch sử, phật giáo, thế kỷ, tồn tại, dân tộc, hồi giáo, trường hợp, đặc biệt
Ý kiến bạn đọc